Lịch sử hoạt động Mikoyan-Gurevich MiG-21

Việt Nam

MiG-21 giành được những danh tiếng đầu tiên của mình trong Chiến tranh Việt Nam, trong thời gian diễn ra chiến tranh, nó tham gia hoạt động thường xuyên trong các nhiệm vụ. Đây là một trong số những máy bay tiên tiến nhất thời gian đó; tuy nhiên, rất nhiều phi công xuất sắc của Không quân Nhân dân Việt Nam lại thích lái MiG-17 hơn, do tỷ trọng lực nâng trên cánh lớn của MiG-21 khiến nó bẻ ngoặt kém hơn so với MiG-17.

MiG-21PF sơn cờ của không quân nhân dân Việt Nam

Dù MiG-21 thiếu radar tầm xa, tên lửa, và mang bom hạng nặng so với những máy bay chiến đấu đa nhiệm vụ hạng nặng của Mỹ, nhưng MiG-21 tỏ ra là một đối thủ đầy thách thức trong tay những phi công lão luyện đặc biệt khi được sử dụng trong tấn công tốc độ cao và công kích nhanh dưới sự điều khiển của GCI. MiG-21 được sử dụng để chặn đứng những nhóm máy bay xung kích F-105 Thunderchief rất hiệu quả, đặc biệt trong việc bắn hạ những máy bay Mỹ hay chí ít cũng bắt chúng phải giảm trọng tải bom mang trên mình.

Đối thủ chính của MiG-21 ở Việt Nam là F4 Phantom của Mỹ, cũng được nghiên cứu chế tạo thành công năm 1958. Khác với F-4 là tiêm kích hạng nặng tầm xa, MiG-21 là tiêm kích hạng nhẹ tầm ngắn, dùng cho tác chiến trên chiến tuyến không xa sân bay căn cứ (khối lượng cất cánh tiêu chuẩn của MiG-21 là dưới 8 tấn, chỉ bằng một nửa F-4). Theo mục đích thiết kế, đối thủ của F-4 phải là loại MiG-23 tiên tiến hơn chứ không phải MiG-21 (tuy nhiên Liên Xô không đồng ý viện trợ loại máy bay này cho Việt Nam). Phải tới cuối 1965, đầu 1966, Không quân Nhân dân Việt Nam mới bắt đầu nhận được những biến thể MiG-21F-13, MiG-21PF để thay thế phi đội MiG-17 già cỗi. Trong hơn 50 năm hoạt động, Không quân nhân dân Việt Nam đã tiếp thu và sử dụng năm loại MiG-21 khác nhau: Đó là các phiên bản MiG-21F-13/PF/FL/PFM/MFL/BIS, với số lượng ước khoảng hơn 500 chiếc (bao gồm cả MiG-17/19).

Đoàn không quân "Sao Đỏ" trang bị MiG-21, đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang trong trận Điện Biên Phủ trên không

Lô hàng các linh kiện và thân máy bay MiG-21 đầu tiên đi theo đường biển về Việt Nam vào cuối năm 1965 trong những thùng gỗ được đóng kín, phủ bạt trên các đoàn tàu và bí mật chạy ban đêm về ga Yên Viên, sau đó được chuyển sang xe chuyên dụng đưa về đầu đông sân bay Đa Phúc (nay là Sân bay quốc tế Nội Bài) và được các kỹ sư, thợ máy kỹ thuật Việt Nam dưới sự hướng dẫn của chuyên gia Liên Xô đã khẩn trương làm việc cả ngày, đêm lắp ráp thành công những chiếc MiG-21 đầu tiên tại căn cứ không quân Đa Phúc. Những chiếc MiG-21 lắp ráp đợt đầu là phiên bản MiG-21 F-76 với hai tên lửa K-13. Lúc này do máy bay Mỹ thường xuyên đánh phá các cơ sở sân bay, nhà xưởng của không quân, nên việc lắp ráp máy bay phải tiến hành ở nơi sơ tán và chủ yếu vào ban đêm. Lúc đầu tiến độ đặt ra là 1 tuần một chiếc, nhưng sau do yêu cầu nhanh chóng có máy bay đưa vào trực ban chiến đấu các kỹ sư và thợ kỹ thuật Việt Nam đã làm việc cả đêm dưới  ánh đèn pin, và chỉ trong 2 - 3 đêm đã lắp xong một chiếc. Sau khi lắp ráp và bay thử bởi các phi công chuyên gia Liên Xô thành công, những chiếc MiG-21 này được trang bị cho Trung đoàn không quân 921.[1]

MiG-21F-13 là biến thể đầu tiên mà Việt Nam sử dụng, được trang bị một pháo 30mm NR-30 cùng một cơ số đạn 30 viên, 2 tên lửa không đối không có điều khiển tầm gần R-3S lắp đầu tự dẫn tầm nhiệt, có thể tiêu diệt mục tiêu ở cự ly 0,9 - 7,6 km. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vũ khí tên lửa của các MiG-21 biến thể này không cao bởi vì trên máy bay không có radar. Tên lửa được dẫn đến mục tiêu nhờ thiết bị ngắm quang học và máy đo xa vô tuyến.

Đến tháng 04/1966, biến thể MiG-21 được sử dụng nhiều nhất ở Việt Nam xuất hiện, đó là MiG-21PF (МиГ-21ПФ). chữ P theo phiên âm tiếng Nga là “đánh chặn”, chữ F phiên âm tiếng Nga có nghĩa là “động cơ nâng cấp”, đây là biến thể đánh chặn mọi thời tiết. MiG-21PF được trang bị động cơ R-11F2-300, trang bị thiết bị dẫn mục tiêu theo lệnh từ sở chỉ huy mặt đất và radar RP-21 Sapfir thay thế cho radar SRD-5M. Radar này có khả năng phát hiện máy bay chiến đấu đối phương ở cự ly 20 km, khóa mục tiêu ở cự ly 10 km, radar mới cho phép MiG-21 sử dụng đạn tên lửa K-5M bên cạnh các tên lửa K-13. Tuy nhiên, biến thể này không được trang bị pháo nên khả năng tác chiến tầm ngắn bị hạn chế (sau khi phóng hết các tên lửa thì MiG-21PF không thể chiến đấu tiếp). Nhìn chung, MiG-21PF chỉ có radar yếu và khả năng chống nhiễu hạn chế nên phụ thuộc nhiều vào hệ thống chỉ mục tiêu và dẫn đường từ mặt đất.

Do mục đích thiết kế khác nhau (MiG-21 là tiêm kích hạng nhẹ tầm ngắn, trong khi F-4 là máy bay tiêm kích hạng nặng tầm xa), MiG-21 và F-4 có những ưu - nhược điểm khi so sánh với nhau:

  • Về trang bị: MiG-21 là tiêm kích đánh chặn tầm ngắn, nên sức mạnh radar và tải trọng vũ khí không được chú trọng như F-4, thay vào đó MiG-21 tập trung vào khả năng cơ động linh hoạt. Vì vậy, MiG-21 có kích thước và tầm bay nhỏ hơn đáng kể so với F-4, tải trọng vũ khí thấp hơn nhiều (2.000 kg so với 8.500 kg) và radar cũng kém hơn nhiều. Bộ vũ khí của MiG-21 cũng yếu hơn nhiều so với F-4, gồm 2 (về sau tăng lên 4) tên lửa không đối không tầm trung R-3S tự dẫn hồng ngoại và pháo 23-30mm (một số phiên bản thì không có pháo), trong khi F-4 trang bị tới 8 tên lửa. Cự ly ngắm bắn bằng radar của MiG-21 nhỏ (không quá 10–12 km đối với mục tiêu là tiêm kích so với 30–40 km của F-4), dấu hiệu mục tiêu trên màn hình trong buồng lái khó nhìn, tầm quan sát từ buồng lái không đủ.[7]. Tuy nhiên, F-4 cũng có điểm yếu: Radar trên F-4 của Mỹ dù có cự ly phát hiện và bao quát lớn, nhưng chống nhiễu địa vật tương đối kém, mặt khác tên lửa đối không tầm trung của F-4 (AIM-7 Sparrow) có chất lượng đầu dò khá thấp nên rất khó bắn trúng nếu máy bay đối phương cơ động nhanh, do vậy ưu thế không chiến tầm xa của F-4 có thể bị vô hiệu hóa nếu đối phương có chiến thuật hợp lý (theo thống kê của Mỹ, đã có 612 quả AIM-7 được phóng ở Việt Nam nhưng chỉ hạ được 59 mục tiêu, tỷ lệ bắn hạ chỉ đạt 9%, trong đó chỉ có 2 quả bắn trúng mục tiêu ở cự ly ngoài 15 km)[8].
  • Về độ cơ động: Tốc độ cao nhất 2.175-2.300 Km/h, trần bay thực tế 18.000-19.000 mét của MiG-21 không thua kém đối thủ Mỹ của mình. Tải lên cánh cao và tốc độ góc khi bay vòng của F-4 thấp hơn một chút (đặc biệt ở tốc độ trung bình), hạn chế quá tải khi khai thác của MiG-21 trội hơn (F-4 chỉ có 6,0 so với của MiG-21PF là 8,0). MiG-21 cũng có ưu thế về hiệu suất nâng (tỷ lệ sức đẩy của động cơ với trọng lượng máy bay) với khối lượng cất cánh tiêu chuẩn F-4B có chỉ tiêu này là 0,74, còn MiG-21PF là 0,79.[7]. Do đó, MiG-21 có ưu thế về độ cơ động và ưu thế này sẽ phát huy nếu không chiến ở tầm gần. Một phân tích của không quân Mỹ vào tháng 12/1966 đánh giá rằng nếu không chiến xảy ra ở độ cao lớn, trên 6.500 m, MiG-21 sẽ giành chiến thắng trước F-4 với tỷ lệ 1 đổi 3, do MiG-21 được tối ưu hóa để tác chiến ở độ cao lớn - nơi nó sẽ săn tìm những máy bay ném bom Mỹ[9].
  • Về chi phí: F-4 có đội bay 2 người so với MiG-21 có 1, có nghĩa rằng nếu bị bắn hạ thì tổn thất về phi công của F-4 sẽ cao gấp đôi. Chi phí chế tạo mỗi chiếc F-4 cũng cao gấp 5 lần so với MiG-21 (có nghĩa rằng cứ mỗi F-4 phải đổi được 5 chiếc MiG-21 thì tổn thất tài chính mới là ngang bằng).

Bộ chỉ huy Không quân và Hải quân Mỹ tin rằng: F-4 với vũ khí mạnh hơn, radar hiện đại, tính năng tốc độ và tăng tốc cao cùng với những biện pháp chiến thuật mới sẽ đảm bảo cho F-4 Phantom chiếm ưu thế. Nhưng khi đối đầu với MiG-21 gọn nhẹ hơn, F-4 bắt đầu chịu thất bại liên tiếp. Không quân Việt Nam đã đưa ra các chiến thuật nhằm khắc chế ưu thế của F-4 trong khi phát huy được lợi thế của MiG-21. MiG-21 của Việt Nam thường tấn công đối phương với tốc độ vượt âm, phóng tên lửa từ phía sau mục tiêu và nhanh chóng thoát khỏi sự truy đuổi. Người Mỹ đã khó đưa ra một giải pháp nào đó chống lại chiến thuật này, một chiến thuật đòi hỏi sự chuẩn bị tốt cho phi công và sĩ quan dẫn đường trên mặt đất ở sở chỉ huy. Không quân Nhân dân Việt Nam cũng khai thác tối đa sự phối hợp hoạt động đồng bộ của MiG-21 với MiG-17 trong không chiến. Những chiếc tiêm kích MiG-17 bay ở tầm thấp dưới 3.000m đã đẩy những chiếc F-4 và F.105 từ độ cao thấp lên độ cao trung bình khoảng 5.000 đến 6.000m, nơi những chiếc MiG-21 đang phục kích tấn công đối phương.[7]

Phản ứng lại, năm 1967, người Mỹ đã nâng cao trình độ lái và chiến thuật cho phi công, phiên bản F-4D đã cải tiến tính đến kinh nghiệm chiến đấu. Nửa đầu năm 1967, trong các trận không chiến Việt Nam chỉ bắn rơi được có 15 máy bay Mỹ. Tuy nhiên, các máy bay tiêm kích Việt Nam lại tăng hiệu quả của mình lên (kinh nghiệm chiến đấu có được, cũng như việc chuyển sang các loại máy bay cải tiến như MiG-21PF và MiG-17F trang bị tên lửa có điều khiển R-3s). Nửa đầu năm 1968, trong 40 trận không chiến các phi công Việt Nam đã tiêu diệt 25 máy bay của đối phương.

Chiếc MiG-21 số hiệu 4324 (do nhiều phi công khác nhau lái) đã bắn hạ 14 máy bay Mỹ từ tháng 1/1967 đến tháng 5/1969. 6 phi công lái chiếc MiG-21 này đã được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Sau khi ngừng các phi vụ ném bom trong Chiến dịch Sấm Rền vào năm 1968, tỷ lệ giành chiến thắng trong không chiến của các máy bay Mỹ rất thấp, khi phải chiến đấu chống lại những máy bay nhỏ, nhanh nhẹn như những chiếc MiG trong thời gian đầu của Chiến tranh Việt Nam dần dần đã dẫn đến việc Không quân Hoa Kỳ phải thành lập chương trình huấn luyện không chiến chuyên biệt như trong trường huấn luyện TOPGUN, chương trình này mục đích là sử dụng những máy bay nhỏ, nhanh nhẹn đóng giả làm MiG-17 và MiG-21 làm mục tiêu huấn luyện cho các phi công, người Mỹ đã sử dụng hai máy bay có tốc độ cận âm là A-4 SkyhawkF-5 Tiger II để thực hiện công việc này.

Sau năm 1968, Liên Xô đã chuyển cho Không quân Việt Nam máy bay tiêm kích MiG-21PFM với thùng pháo treo GP-9 gắn pháo 23mm GSh-23L (ГШ-23Л), các tính năng cất-hạ cánh hoàn thiện hơn và ghế nhảy dù KM-1.

Khoảng năm 1971, Không quân Việt Nam tiếp nhận thêm MiG-21MF. Nó có động cơ mạnh hơn các biến thể trước đó, pháo 23mm gắn trong thân máy bay và radar RP-22 (РП-22). MiG-21MF đã có thể mang tới 4 quả tên lửa không đối không thay vì 2 như các phiên bản đầu, trong đó có tên lửa mang đầu tự dẫn làm tăng khả năng tác chiến trong điều kiện tầm nhìn hạn chế hoặc khi tác chiến vào ban đêm.

Mùa xuân năm 1972, Mỹ sau khi tăng lực lượng không quân đến 1.000 máy bay chiến đấu, đã tiến hành chiến dịch không quân quy mô lớn Freedom Train (9/4-7/5) nhằm đánh phá hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam. Ngày 8/5, người Mỹ bắt đầu chiến dịch Linebacker, kéo dài đến 23/10. Đỉnh cao của trận chiến trên không mùa xuân năm 1972 là ngày 10/5, khi không quân Việt Nam đã thực hiện 64 lần xuất kích, tiến hành 15 trận không chiến, bắn rơi 7 chiếc F-4 Phantom (Mỹ công nhận mất 5 chiếc). Máy bay Mỹ, về phần mình đã hạ được 2 MiG-21, 3 MiG-17 và 1 MiG-19. Sau khi rút kinh nghiệm, các phi công Việt Nam dùng chiến thuật mới để phản công. Ngày 11 và 13/5, phi công Việt Nam hạ được 4 F-4 mà không bị tổn thất. Ngày 18/5, các phi công Việt Nam xuất kích 26 lần và tiến hành 8 trận không chiến, bắn rơi 4 chiếc F-4 Phantom trong khi Việt Nam không bị tổn thất.[10].

Trong tháng 6, các Trung đoàn không quân tiêm kích 921 và 923 của Việt Nam đã bắn rơi 16 máy bay đối phương và chịu tổn thất 4 chiếc. Ngày 27 tháng 6, Không quân Mỹ tổ chức một trận tập kích lớn vào Hà Nội với 24 máy bay cường kích và 20 máy bay tiêm kích F-4 yểm hộ. 5 chiếc MiG-21MF của Việt Nam đã hạ 4 chiếc F-4E của Không quân Hoa Kỳ tại vùng trời Tây Bắc Việt Nam, bắn bị thương 1 chiếc F-4E khác, phía Việt Nam không bị tổn thất.[11] Theo nghiên cứu của chuyên gia Rob Young tại Trung tâm tình báo hàng không và vũ trụ quốc gia (Mỹ), có một số thời điểm, vào giai đoạn tháng 6 và 7/1972, MiG-21 đã đạt tỷ lệ chiến thắng 1 đổi 9 trước máy bay Mỹ.

Cuộc tấn công đường không do Mỹ tiến hành mùa Xuân và Hè năm 1972, đến mùa thu trên chiến trường chỉ có 71 máy bay tiêm kích của Việt Nam (40 chiếc MiG-17 và MiG-19, 31 chiếc MiG-21) chống lại 360 máy bay tiêm kích chiến thuật của Không quân Mỹ và 96 máy bay tiêm kích của Hải quân, phần lớn trong đó là F-4 Phantom thuộc các biến thể hiện đại nhất. Tổng cộng năm 1972, giữa các máy bay Mỹ và Việt Nam đã có 201 trận không chiến, trong đó phía Việt Nam mất 54 máy bay (gồm 36 chiếc MiG-21, một MiG-21US) và Mỹ mất 90 máy bay (trong đó có 73 tiêm kích F-4 và 2 máy bay trinh sát RF-4C).[7]

Chiếc MiG-21MF số hiệu 5121 mà Phạm Tuân đã dùng để bắn rơi một máy bay B-52 vào ngày 27/12/1972

Không quân Nhân dân Việt Nam ghi nhận có 3 trường hợp MiG-21 tấn công và bắn hạ pháo đài bay B-52 Stratofortress đang bay quanh Hà Nội trong Chiến dịch Linebacker II ném bom rải thảm miền Bắc Việt Nam. Họ tự hào là lực lượng không quân duy nhất trên thế giới tấn công trực tiếp được máy bay ném bom chiến lược của Mỹ kể từ sau thế chiến thứ 2 cho tới nay:

  • Trường hợp đầu tiên do phi công Vũ Đình Rạng bắn trúng B-52 ngày 20 tháng 11 năm 1971. Chiếc B-52 bị trúng 1 tên lửa phóng đi từ chiếc MiG-21 và bị hư hỏng nặng, phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Nakhom-Phanom, Thái Lan (một số nguồn cho rằng chiếc B-52 này đã hỏng quá nặng nên phải xẻ ra làm phế liệu sau đó).
  • Trường hợp thứ hai được phía Việt Nam ghi nhận là do phi công Phạm Tuân lái chiếc MiG-21MF, với 2 quả tên lửa đã bắn rơi tại chỗ 1 chiếc B-52 vào ngày 27 tháng 12 năm 1972. Ông được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào ngày 3 tháng 9 năm 1973.
  • Trường hợp thứ ba diễn ra ngay vào ngày hôm sau, 28 tháng 12 năm 1972, được ghi nhận do phi công Vũ Xuân Thiều sau khi đã bắn tên lửa mà không hạ được B-52, đã lao máy bay vào chiếc B-52 (một số nguồn thì cho rằng chiếc MiG-21 của Vũ Xuân Thiều bị rơi do chiếc B-52 mục tiêu đã phát nổ ở quá gần). Vũ Xuân Thiều được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Trong số 16 phi công Việt Nam đạt cấp Ace (bắn hạ từ 5 máy bay địch trở lên), có 13 phi công lái MiG-21, 2 phi công lái MiG-17 và 1 phi công lái cả hai loại. Phi công Nguyễn Văn Cốc với chiếc MiG-21 đã hạ 9 máy bay Mỹ cùng với 2 chiếc UAV trinh sát của Mỹ, là phi công có thành tích cao nhất trong cả cuộc chiến.

Thành tích không chiến của MiG-21 tại Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng huân chương cho phi công Nguyễn Văn Cốc (trung đoàn tiêm kích 921). Nguyễn Văn Cốc đã bắn hạ 11 máy bay Mỹ (gồm 2 UAV trinh sát), ông có thành tích không chiến cao nhất trong Chiến tranh Việt Nam và là phi công MiG-21 thành công nhất thế giới

Ngày 04/03/1966, phi công Nguyễn Hồng Nhị lái MiG-21 đã bắn hạ thành công một chiếc máy bay trinh sát không người lái AQM-34 Firebee của Mỹ ở độ cao 18 km. Đây là thành tích không chiến đầu tiên của MiG-21 tại Việt Nam.

Trong suôt thời gian tham chiến tại Việt Nam, MiG-21 được điều khiển bởi các phi công Việt Nam được tuyên bố đã bắn hạ 165 máy bay các loại của Mỹ, trong khi phía Mỹ tuyên bố có 96 chiếc MiG-21 bị máy bay Mỹ bắn rơi. Tài liệu của Việt Nam xác nhận là đã có 60 chiếc MiG-21 bị rơi trong không chiến (54 chiếc do F-4 bắn rơi và 6 chiếc do các loại khác của Mỹ bắn rơi) và 5 chiếc khác rơi do tai nạn. 16 phi công MiG-21 đã thiệt mạng, tỷ lệ phi công thương vong thấp nhất trong số các loại máy bay chiến đấu của Việt Nam trong cuộc chiến[12]

Kết quả không chiến cụ thể qua các năm như sau[13]:

  • 1966: Hoa Kỳ tuyên bố 6 chiếc MiG-21 bị phá hủy; Việt Nam tuyên bố 7 chiếc F-4 Phantom II và 11 chiếc F-105 Thunderchiefs bị MiG-21 bắn hạ.
  • 1967: Hoa Kỳ tuyên bố 21 chiếc MiG-21 bị phá hủy; Việt Nam tuyên bố 11 chiếc F-4 Phantom II, 17 chiếc F-105 Thunderchiefs, 2 chiếc McDonnell RF-101 Voodoo, 1 chiếc Douglas A-4 Skyhawk, 1 chiếc Vought F-8 Crusader, 1 chiếc EB-66 Destroyer và 3 máy bay loại khác bị MiG-21 bắn hạ.
  • 1968: Hoa Kỳ tuyên bố 9 chiếc MiG-21 bị phá hủy; Việt Nam tuyên bố 17 máy bay các loại của Mỹ bị MiG-21 bắn hạ.
  • 1969: Hoa Kỳ tuyên bố 3 chiếc MiG-21 bị phá hủy; 2 chiếc máy bay không người lái Firebee bị MiG-21 bắn hạ.
  • 1970: Hoa Kỳ tuyên bố 2 chiếc MiG-21 bị phá hủy; Việt Nam tuyên bố 1 chiếc F-4 Phantom và 1 trực thăng CH-53 Sea Stallion bị MiG-21 bắn hạ.
  • 1972: Hoa Kỳ tuyên bố 51 chiếc MiG-21 bị phá hủy; Việt Nam tuyên bố 53 máy bay các loại của Mỹ bị MiG-21 bắn hạ, bao gồm 2 chiếc B-52 Stratofortress. Tướng Fesenko, cố vấn Liên Xô tại Việt Nam năm 1972,[14] báo cáo có 34 chiếc MiG-21 bị mất trong năm này.[14]

Các phi công MiG-21 nổi tiếng của Việt Nam

Cuối năm 2015, MiG-21 chính thức ngừng hoạt động trong Không quân Việt Nam, chấm dứt 50 năm phục vụ của loại máy bay này tại Việt Nam.

Trung Đông

MiG-21F-13 do Israel chiếm được.

MiG-21 cũng được sử dụng rộng trong các cuộc xung đột ở Trung Đông trong thập niên 1960 và 1970 bởi không quân các quốc gia Ai Cập, SyriaIraq nhằm chống lại Israel.

Quân đội Israel có truyền thống rất coi trọng việc hiểu rõ những loại vũ khí mà đối phương đang sử dụng. Khi MiG-21 xuất hiện ở Trung Đông, tướng Mordecai Hod, tư lệnh không quân Israel, mong muốn tình báo Israel có thể chiếm được 1 chiếc MiG-21 để nghiên cứu nhằm tìm ra điểm yếu của máy bay này. Một phi công Iraq, Munir Redfa, đồng ý đào tẩu sang Israel cùng chiếc MiG-21 do chính mình lái, đó là chiến dịch tình báo mang tên "Chiến dịch Kim Cương". Lợi ích từ việc chiếm được chiếc MiG-21 được thể hiện rất rõ ngay sau đó. Khi MiG-21 đối mặt với những chiếc Mirage IIIC của Không quân Israel vào ngày 7 tháng 4-1967, 6 chiếc MiG-21 của Syria đã bị bắn hạ bởi những chiếc Mirage của Israel.

Trong các cuộc tấn công phủ đầu của Chiến tranh Sáu ngày năm 1967, Không quân Israel đã bất ngờ tấn công lực lượng không quân Ả Rập trong bốn đợt tấn công. Trong đợt đầu tiên, Israel tuyên bố đã phá hủy tám chiếc máy bay Ai Cập trong không chiến, trong đó có bảy chiếc là MiG-21; Ai Cập tuyên bố năm máy bay Israel bị hạ bởi MiG-21PF[15]. Trong đợt tấn công thứ hai, Israel tuyên bố 4 chiếc MiG-21 bị bắn rơi trong không chiến, và đợt thứ ba có hai chiếc MiG-21 của Syria và một chiếc MiG-21 của Iraq bị bắn rơi. Đợt tấn công thứ tư phá hủy nhiều MiG-21 của Syria trên mặt đất. Nhìn chung, Ai Cập mất khoảng 100 trong số khoảng 110 chiếc MiG-21 mà họ có, gần như tất cả đều đang đậu trên mặt đất. Syria mất 35 trong số 60 chiếc MiG-21F-13 và MiG-21PF trong không chiến và trên mặt đất[13] Thất bại của không quân Ả Rập chủ yếu là do sự chủ quan khinh địch, mất cảnh giác và vô kỷ luật của họ: máy bay Israel bay vào đến tận sân bay mà quân Ả Rập vẫn không hề biết, phần lớn các phi công không kịp lên máy bay, kết quả là hầu hết MiG-21 bị ném bom phá hủy khi đang đậu trên sân bay.

Sau khi kết thúc Chiến tranh Sáu ngày và bắt đầu Chiến tranh tiêu hao (1968-1972), máy bay chiến đấu Mirage của Israel bắn hạ sáu MiG-21 của Ai Cập, đối lại MiG-21 của Ai Cập bắn hạ 2 máy bay và có thể đã hạ thêm 3 máy bay khác của Israel. Trong suôt cuộc chiến tranh tiêu hao, Israel tuyên bố đã hạ 56 chiếc MiG-21 của Ai Cập, trong khi MiG-21 của Ai Cập bắn hạ 14 máy bay Israel và có thể đã hạ thêm 12 máy bay khác của Israel. Trong cùng thời gian đó, Israel tuyên bố tổng cộng 25 chiếc MiG-21 của Syria bị phá hủy; Syria tuyên bố MiG-21 của họ đã bắn hạ 3 máy bay và có thể đã hạ thêm 4 máy bay khác của Israel[13].

Thiệt hại cao của máy bay khiến Ai Cập yêu cầu Liên Xô giúp đỡ. Vào tháng 3 năm 1970, các phi công Liên Xô và các đội tên lửa phòng không đến Ai Cập với các thiết bị của họ. Các phi công Liên Xô có trình độ huấn luyện tác chiến tốt hơn hẳn so với phi công Ả Rập, MiG-21 trong tay họ là mối đe dọa nghiêm trọng hơn nhiều.

Cuối tháng 4/1970, 2 chiếc F-4 Phantom của Israel bị bắn hạ bởi MiG-21 do phi công Liên Xô lái. Ngày 16 tháng 5 năm 1970, 1 máy bay Israel bị bắn hạ, có thể là bởi MiG-21 do phi công Liên Xô lái. Ngày 22 tháng 6 năm 1970, một phi công Liên Xô lái chiếc MiG-21MF đã bắn rơi một chiếc A-4E của Israel. Sau một số phi vụ đánh chặn thành công bởi các phi công Liên Xô và một chiếc A-4E khác bị bắn hạ vào 25 Tháng 7, Israel đã quyết định lên kế hoạch một cuộc phục kích. Ngày 30 tháng 7, các chiếc F-4 của Israel đã đóng vai trò "mồi nhử" để thu hút các MiG-21 do phi công Liên Xô lái vào một khu vực mà họ đã phục kích sẵn bởi những chiếc Mirage, kết quả là 4 chiếc MiG-21 bị bắn hạ trong khi Israel chỉ có 1 chiếc Mirage bị hư hại. Ba phi công Xô viết đã thiệt mạng và các cố vấn Liên Xô đã được báo động bởi các tổn thất. Tuy nhiên, chiến dịch này không giúp Israel đảo ngược tình thế trước đối thủ vượt trội. Sau khi rút kinh nghiệm, các phi công Liên Xô đã trở lại sau thất bại này. Chỉ 1 tuần sau, ngày 7/8, các phi công Liên Xô đã gài bẫy đối thủ, bắn hạ 2 máy bay Mirage III của Israel. Tính chung trong 2 năm 1970-1971, MiG-21 do các phi công Liên Xô lái và các đơn vị phòng không do họ vận hành đã phá hủy tổng cộng 21 máy bay Israel (8 chiếc bị tên lửa phòng không SA-3 bắn hạ, 13 chiếc do MiG-21 bắn hạ), phía Liên Xô chỉ tổn thất 5 chiếc MiG-21. Kết quả này khiến Israel chấp nhận ký một thỏa thuận ngừng bắn tạm thời với Ai Cập[13].

MiG-21 cũng đối mặt với những chiếc F-4 Phantom IIA-4 Skyhawk trong thập niên 1970, nhưng sau đó những mẫu máy bay tiên tiến xuất hiện trong biên chế của không quân Israel như F-15 EagleF-16 Fighting Falcon vào thập niên 1980 thì MiG-21 đã mất dần thế thượng phong trong các trận chiến. MiG-21 cũng được sử dụng vào giai đoạn đầu của Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan vào tháng 12-1979.

Vào tháng 9 năm 1973, một trận không chiến lớn nổ ra giữa Syria và Israel, Israel tuyên bố tổng cộng 12 chiếc MiG-21 của Syria bị phá hủy, trong khi Syria tuyên bố 8 máy bay Israel bị hạ bởi MiG-21 và công nhận có 5 chiếc MiG-21 của họ bị hạ.

Trong thời gian diễn ra Chiến tranh Yom Kippur, trong cuộc "Không chiến ở el-Mansoura" tại Ai Cập, Israel đã sử dụng chiến thuật đột kích quy mô lớn với hơn 110 máy bay - F-4 PhantomA-4 Skyhawk - trong những nỗ lực để tấn công căn cứ không quân lớn của Ai Cập tại el-Mansourah. Và trận chiến lên đến cực điểm trong một cuộc hỗn chiến gần như liên tục kéo dài khoảng 53 phút. Theo những đánh giá của Ai Cập khoảng 180 máy bay đã tham gia vào cuộc hỗn chiến đó, gồm 62 chiếc MiG-21 chống lại hơn 110 máy bay của Israel. Lúc 10 giờ - giờ Ai Cập - Đài phát thanh Cairo đá phát đi "Communiqué Number 39 - Thông cáo số 39", thông báo rằng đã có vài trận không chiến trong ngày ở một số sân bay của Ai Cập, đa số đều diễn ra ở khu vực bắc Delta. Đồng thời cũng thông báo rằng 15 máy bay quân địch đã bị bắn hạ bởi những máy bay chiến đấu của Ai Cập, và Ai Cập chỉ mất 3 máy bay, trong khi một số lượng lớn máy bay của Israel đã bị bắn hạ bởi lục quân và lực lượng phòng không ở Sinai và Kênh Suez. Về phần mình, Đài phát thanh Israel lại tuyên bố vào sáng hôm sau rằng Không quân Israel đã bắn hạ 15 máy bay Ai Cập, nhưng sau đó hạ xuống còn 7.

Sau một loạt phân tích chi tiết hơn khi chiến tranh kết thúc, Không quân Ai Cập thậm chí đã tăng những con máy bay bắn hạ được ban đầu và đã khẳng định những kết quả của cuộc Không chiến ở el-Mansourah như sau: 17 máy bay Israel đã bị bắn hạ và Ai Cập mất 6 chiếc MiG-21. Trong những máy bay bị mất của Ai Cập, 3 chiếc bị bắn hạ bởi máy bay của Israel, 2 chiếc gặp tai nạn do hết nhiên liệu trước khi phi công có thể quay trở lại căn cứ và chiếc cuối cùng gặp tai nạn khi bay qua những mảnh vụn của một chiếc F-4 Phantom mà nó vừa bắn hạ.[16] Tuy nhiên phía Israel phủ nhận và cho rằng chỉ có 2 máy bay của họ bị rơi.[17] Theo Kenneth Pollack, trong suốt cuộc chiến đã có 52 trận không chiến lớn giữa Ai Cập và Israel. Israel chỉ công nhận Ai Cập đã bắn hạ thành công 5-8 máy bay của Israel, trong khi Israel tuyên bố đã bắn hạ 172 máy bay Ai Cập (bao gồm 73 chiếc MiG-21)[18]. Theo Chaim Herzog, trong cuộc chiến tranh Yom Kippur, Israel tuyên bố 73 chiếc MiG-21 của Ai Cập bị hạ (65 được Israel khẳng định). Ngược lại, Ai Cập khẳng định đã bắn hạ 27 máy bay Israel bởi MiG-21 của mình, cộng với tám chiếc khác có thể cũng đã bị hạ.[13] Tuy nhiên, theo hầu hết các nguồn tin của Israel, đây là những tuyên bố phóng đại của Ai cập và Israel chỉ xác nhận bị mất 5 đến 15 chiếc máy bay do không chiến trong toàn bộ cuộc chiến tranh [19][20]

Ở mặt trận Syria, ngày 06 Tháng 10 năm 1973, MiG-21MF của Syria đã bắn hạ một chiếc A-4E và 1 chiếc Mirage IIICJ, trong khi Syria mất 3 chiếc MiG. Ngày 7 tháng 10, MiG-21MF của Syria đã bắn hạ 2 chiếc F-4E, ba chiếc Mirage IIICJs và 1 chiếc A-4E trong khi bị mất hai máy bay MiG của họ, cộng với 2 chiếc MiG bị tên lửa phòng không của quân nhà bắn nhầm. MiG-21PF cũng hoạt động trên mặt trận này, và cùng ngày hôm đó bắn rơi 2 chiếc A-4E trong khi bị mất một chiếc MiG. 08 tháng 10 năm 1973, MiG-21PFM của Syria bắn rơi 3 chiếc F-4E, nhưng 6 chiếc MiG-21 của họ đã bị rơi. Vào cuối cuộc chiến, MiG-21 của Syria tuyên bố tổng cộng 30 máy bay Israel đã bị bắn hạ, trong khi Israel tuyên bố 29 chiếc MiG-21 của Syria đã bị hạ[13].

Ai Cập sau này đã được cung cấp những tên lửa Sidewinder của Mỹ, và chúng cũng được trang bị trên MiG-21 và rất thành công khi sử dụng trong không chiến chống lại những chiếc Mirage 5MiG-23 của Libya trong Chiến tranh năm 1977. Khoảng 3-4 chiếc Mirage và 2 chiếc MiG-23 của Libya bị MiG-21 của Ai Cập bắn hạ, trong khi Ai Cập tổn thất 1 chiếc MiG-21.

Đầu thập niên 1980, Israel được Mỹ cung cấp cho những chiếc F-15F-16 mới có khả năng trội hơn những chiếc MiG-21. Trong chiến tranh Lebanon bắt đầu vào ngày 06 tháng 6 năm 1982, Israel tuyên bố đã phá hủy khoảng 45 chiếc MiG-21 của Syria. Syria tuyên bố 2 máy bay Israel bị bắn hạ và có thể 15 máy bay khác của Israel cũng đã bị hạ.[13] Ngoài ra, ít nhất là hai chiếc F-15 và một chiếc F-4 của Israel đã bị hư hại khi chiến đấu với máy bay MiG-21.[21][22] Không quân Israel xác nhận có ít nhất 1 chiếc F-15 bị hư hại do trúng tên lửa từ MiG-21 vào ngày 9/6/1982, quả tên lửa đã phá tan một động cơ của chiếc F-15 nhưng nó vẫn cố hạ cánh về sân bay bằng động cơ còn lại trước khi bị ngọn lửa bao trùm.[23] Việc chiếc F-15 của Israel bị bắn trọng thương cho thấy MiG-21 vẫn là một tiêm kích nguy hiểm, ngay cả đối với máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4 ra đời sau nó 25 năm.

Ấn Độ

IAF MiG-21 Bison

Ấn Độ đưa vào sử dụng những chiếc tiêm kích MiG-21 đầu tiên vào năm 1964. Tổng cộng, nước này đã nhận được 874 chiếc MiG-21, khoảng hơn 200 chiếc do các nhà máy Liên Xô sản xuất và 657 chiếc khác được lắp ráp tại Ấn Độ. MiG-21 từng là xương sống của lực lượng không quân Ấn Độ, chúng đã tham gia tất cả các cuộc xung đột vũ trang lớn ở đất nước này từ năm 1963.

Không quân Ấn Độ cũng sử dụng MiG-21 trong chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971. Trong cuộc chiến này đã chứng kiến cuộc không chiến siêu âm đầu tiên trên tiểu lục địa Ấn Độ, khi 1 chiếc MiG-21 của Ấn Độ bắn hạ 1 chiếc F-104 Starfighter của Không quân Pakistan.[24] Những chiếc MiG đã thực hiện một vai trò quan trọng trong các cuộc không chiến, bảo đảm chiếm ưu thế trên không và cuối cùng khiến Pakistan thất bại. MiG-21 cũng được sử dụng vào cuối năm 1999 trong Chiến tranh Kargil. Những chiếc MiG-21 lần cuối cùng được biết đến sử dụng trong không chiến vào năm 1999 trong Sự kiện Atlantique, khi 2 chiếc MiG-21 của Ấn Độ đã bắn hạ 1 chiếc máy bay trinh sát Breguet Atlantique của Hải quân Pakistan, người Ấn Độ đã đưa ra lý do máy bay của Pakistan đã bay vào không phận của Ấn Độ.[25]

các máy bay MiG-21 của Không quân Ấn Độ đã phải trải qua đợt hiện đại hóa quy mô vào năm 1999. Nga đã nâng cấp sâu rộng 125 chiếc MiG-21Bis của Ấn Độ lên chuẩn “MiG-21-93 Bison”. Gói nâng cấp đã áp dụng một số công nghệ trên các loại tiêm kích thế hệ 4, như là thay mới radar cũ RP-21MA/RP-22 bằng loại Phazotron Kopyo - được phát triển dựa trên công nghệ dòng radar Zhuk với tầm trinh sát bán cầu trước đến 57 km, ở bán cầu sau là 25–30 km, có thể theo dõi mục tiêu RCS 3m2 tại khoảng cách 45 km. Kopyo cung cấp cho MiG-21-93 khả năng theo dõi 10 mục tiêu cùng lúc và dẫn đường cho tối đa 2 tên lửa tiêu diệt 2 mục tiêu cùng lúc. Trong chế độ không đối đất, Kopyo có thể phát hiện mục tiêu xe thiết giáp ở cự ly 25 km hoặc cầu đường ở cách 100 km trong khi theo dõi 2 mục tiêu, có thể phát hiện tàu thuyền cỡ nhỏ ở cách 80 km hoặc mục tiêu kích cỡ tương đương khu trục hạm ở khoảng cách 150 km. MiG-21-93 Bison có thể triển khai các loại tên lửa không đối không mới nhất của Nga như R-73E (tầm ngắn), R-27 (dẫn đường radar bán chủ động, tầm trung) và R-77 (radar chủ động, tầm trung – xa lên tới 100 km)

Những máy bay nâng cấp MiG-21 'Bison' được đưa tin có hiệu suất tốt và có thể chống lại được những máy bay F-15F-16 của Không quân Hoa Kỳ trong cuộc tập trận chung Ấn Độ-Hoa Kỳ. Những phi công Mỹ đã ngạc nhiên với những khả năng của MiG-21 Bison. Theo tường trình thì trong các cuộc không chiến mô phỏng khả năng thao diễn của phiên bản 'Bison' mới đã bỏ xa những máy bay của phương Tây và có tỷ lệ chiến thắng lớn. Hai bên tập trận theo thể thức 6 máy bay F-15C chiến đấu với 18 máy bay Ấn Độ (gồm 12 MiG-21 Bison và 6 Su-30)[26], Ấn Độ không cho phía Mỹ sử dụng radar quét mảng điện tử chủ động (AESA) tiên tiến trên F-15 của họ và phía Mỹ không được mô phỏng bắn tên lửa ngoài tầm nhìn (BVR) (do yêu cầu của Ấn Độ không sử dụng tên lửa AMRAAM). Hơn nữa, người Ấn Độ đã phái những phi công giàu kinh nghiệm nhất của họ đến chiến đấu chống lại người Mỹ trong khi Mỹ chỉ đưa ra một phi đội tiêu chuẩn có sự kết hợp giữa các phi công giàu kinh nghiệm và ít kinh nghiệm. Các phi công Mỹ nhận xét rằng MiG-21 Bison là một đối thủ rất ghê gớm với F-15C khi đánh cận chiến, do loại máy bay này có độ bộc lộ radar thấp, vận tốc cao và rất linh hoạt.[26]

Tuy nhiên, do Ấn Độ cố gắng khai thác những chiếc MiG-21 có tuổi thọ bay đã quá cao (tới gần 50 năm), hồ sơ về tính an toàn của chúng rất đáng buồn: trong suốt 50 năm sử dụng, Ấn Độ đã mất hàng trăm chiếc MiG-21 do tai nạn với hơn 170 phi công thiệt mạng; tính riêng vài năm trở lại đây đã xảy ra 29 vụ tai nạn trong không quân Ấn Độ, trong đó 12 vụ là của máy bay MiG-21. Chính vì lặp lại quá nhiều tai nạn, các phi công đã đặt tên cho MiG-21 là "quan tài bay"[27] hay "nơi sản xuất ra những góa phụ". Trong nửa thế kỷ qua, Ấn Độ đã mua nguyên chiếc (hoặc mua linh kiện để tự lắp ráp) 976 máy bay MiG-21, trong đó có 1 nửa gặp phải sự cố, bị tổn thất và không thể tiếp tục sử dụng. Ấn Độ hiện nay cũng đã đẩy nhanh các bước thay thế loại máy bay cũ này, chuyển sang sử dụng máy bay không phải do Nga chế tạo hoặc không phải máy bay MiG (chẳng hạn Su-30).[28] Mặc dù rất muốn thay thế MiG-21 càng sớm càng tốt nhưng Ấn Độ buộc phải tiếp tục duy trì MiG-21 tới năm 2019.[29]

Cũng không ít chuyên gia quân sự cho rằng, các vụ tai nạn MiG-21 không phải do lỗi thiết kế, mà chủ yếu là do "căn bệnh" quản lý chất lượng không chặt chẽ của cả không quân Ấn Độ (nhất là với những chiếc MiG-21 do Ấn Độ tự lắp ráp), cộng với việc Ấn Độ không cho nghỉ hưu số MiG-21 đã quá niên hạn. Một dẫn chứng là rất nhiều nước khác vẫn còn sử dụng MiG-21 và tỷ lệ tai nạn của họ thấp hơn nhiều so với Ấn Độ. Không quân Ấn Độ quyết định nâng cấp hệ thống radar đa chế độ Super Kopyo do Nga sản xuất và hệ thống dẫn đường quán tính, sử dụng con quay hồi chuyển laser điều khiển vòng Totem 221G của Pháp chế tạo cho các máy bay MiG-21 còn lại.[30]

Chỉ huy lực lượng Không quân Ấn Độ có ý định kéo dài tuổi thọ máy bay chiến đấu MiG-21, nguyên nhân của sự việc này là do việc hủy bỏ hợp đồng với công ty Dassault của Pháp về việc cung cấp 126 máy bay chiến đấu Rafale.[31] Theo kế hoạch, tất cả những "én bạc" sẽ bị "loại khỏi vòng chiến đấu" của Không quân Ấn Độ vào năm 2019. Ngoài việc hủy bỏ hợp đồng cung cấp 126 máy bay Rafale theo chương trình MMRCA mà còn là do sự quá trì trệ trong việc đưa loại máy bay Tejas "made in India" vào sử dụng.

Ngày 27/2/2019, theo Ấn Độ tuyên bố thì 8 tiêm kích Ấn Độ và 24 chiến đấu cơ Pakistan đã tham gia trận không chiến lớn nhất từ năm 1971 giữa hai nước. Đội hình của Pakistan gồm 8 tiêm kích F-16, 4 chiến đấu cơ Mirage III, 4 máy bay JF-17 cùng 8 phi cơ hộ tống, trong khi Ấn Độ đã triển khai 4 tiêm kích hạng nặng Su-30MKI, hai chiến đấu cơ Mirage 2000 cải tiến và hai máy bay MiG-21 nâng cấp (MiG-21 Bison) để đánh chặn. Ấn Độ cũng tuyên bố chiếc MiG-21 của Thượng tá Abhinandan Varthaman đã dùng tên lửa Vympel R-73 bắn rơi 1 tiêm kích F-16 của Pakistan, ngay sau đó một tên lửa đối không tầm trung AIM-120 AMRAAM phóng từ 1 chiếc F-16 khác đã đánh trúng chiếc MiG-21 của Varthaman, buộc phi công này phải nhảy dù[32] Đây được coi là một bất ngờ lớn, khi mà MiG-21 với tuổi đời 50 năm (dù đã được nâng cấp) nhưng vẫn có thể bắn hạ được 1 chiếc tiêm kích hiện đại thế hệ 4 do Mỹ chế tạo. Nhà báo Italia David Cenciotti, người điều hành trang web The Aviationist nổi tiếng, bình luận: "MiG-21 Bison là phiên bản nâng cấp từ mẫu MiG-21 cơ bản do Nga chế tạo. Mặc dù thiết kế của nó đã lỗi thời, nhưng khả năng linh hoạt và tăng tốc của nó cùng kính ngắm gắn trên mũ phi công kết hợp với tên lửa không đối không R-73 là những yếu tố biến MiG-21 trở thành đối thủ đáng sợ thực sự, ngay cả với những tiêm kích hiện đại hơn..."[33]

Tạp chí Foreign Policy đưa tin rằng phía Mỹ đã tiến hành kiểm tra F-16 theo yêu cầu của Pakistan và xác nhận không thiếu chiếc nào, trái với tuyên bố của không quân Ấn Độ rằng họ đã bắn hạ một chiếc.[34][35] Tuy nhiên, mấy ngày sau đó, nhiều tờ báo Ấn Độ như Defense world, Asianage và Hindustan Times tuyên bố rằng phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ nói họ không có cuộc điều tra nào về số lượng máy bay F-16 của Pakistan để xác định xem nước này có bị mất một chiếc trong trận không chiến với Ấn Độ vào ngày 27/2 hay không[36][37][38]. Theo Washington Post thì giống như Lầu năm góc, Bộ Ngoại giao vẫn chưa đưa ra bất kỳ tuyên bố công khai nào về số lượng F-16 của Pakistan, vì thế không thể khẳng định hay phủ định được nguồn tin của Tạp chí Foreign Policy.[39]

Phía Ấn Độ thì đưa ra những hình ảnh hiển thị radar chưa được bên thứ 3 kiểm chứng nhằm chứng minh rằng chiếc F-16 của Pakistan đã bị bắn rơi[40], theo đó 1 máy bay cảnh báo sớm trên không của Ấn Độ đã xác định được tín hiệu của 3 chiếc F-16 và thấy một trong số đó đã biến mất hoàn toàn sau trận không chiến[41] Tuy nhiên Pakistan đưa ra mảnh vỡ của 4 quả tên lửa của MiG-21 với đầu dò và động cơ để bác bỏ tuyên bố của phía Ấn Độ, bởi tiêm kích MiG-21 Bison trong biên chế không quân Ấn Độ chỉ mang được tối đa 4 tên lửa trong một lần xuất kích và Pakistan căn cứ vào đó để khẳng định chiếc MiG-21 của Ấn Độ chưa kịp phóng tên lửa khi bị bắn hạ.[42] Phát ngôn viên quân đội Pakistan, Thiếu tướng Asif Ghafoor nói với các phóng viên ở Rawalpindi: "Trong thời đại ngày nay, việc che giấu máy bay bị bắn rơi là không thể."[43] Theo báo the Driver thì phía Ấn Độ chưa cung cấp được bằng chứng nào về vụ bắn hạ F-16 ngoài sự biến mất của F-16 trên màn hình radar. Địa hình đồi núi và sự lộn xộn trên mặt đất có thể tạm thời che dấu hiển thị F-16 trên radar, và không có dấu hiệu cho thấy Pakistan đã tổ chức cứu hộ để tìm kiếm phi công của chiếc F-16 nào. Cũng không có bằng chứng hình ảnh hoặc video, thậm chí là hình ảnh chưa được xác nhận từ những người ngoài cuộc về bất kỳ vị trí va chạm nào khác, ngoài MiG-21 sau trận chiến[44]. Phía Pakistan cũng tuyên bố loại máy bay đã bắn hạ chiếc MiG-21 của Ấn Độ không phải là F-16, mà là JF-17 Thunder, sản phẩm hợp tác chế tạo giữa Trung Quốc và Pakistan[45]

Để chứng minh rằng thực sự F-16 đã bị rơi, Ấn Độ đã lấy chính mảnh xác tên lửa Pakistan bắn rơi MiG-21 của mình ra để minh họa ngược lại rằng MiG-21 Bison đã tiêu diệt thành công F-16[46] và nếu mảnh tên lửa găm vào máy bay bị rơi là tên lửa AIM-120 thì máy bay đó phải là F-16 chứ không thể nào là JF-17 do các tiêm kích JF-17 mà Không quân Pakistan sử dụng đều được tích hợp tên lửa do Trung Quốc sản xuất. Việc Không quân Pakistan cho biết JF-17 đã bắn rơi MiG-21 chứ không phải F-16 rất có thể để nhằm tránh sự trừng phạt của Mỹ, vì Washington chưa chấp nhận cho Islamabad mang F-16 sử dụng nhiệm vụ nào ngoài chống khủng bố.[47]

Nam Tư cũ

Trong thời gian 1991-1995, Quân đội Nhân dân Nam Tư (JNA) và lực lượng người Serb đã sử dụng những chiếc MiG-21M (khoảng 100 chiếc trong thỏa thuận tổng cộng 1/3 lực lượng không quân) khi diễn ra Chiến tranh Slovenia, Chiến tranh giành độc lập CroatiaChiến tranh Bosna và lần nữa trong Chiến tranh Kosovo 1999 và Operation Allied Force (Chiến dịch Sức mạnh đồng minh - khi NATO ném bom Nam Tư 1999). Trừ trong thời gian NATO can thiệp vào Nam Tư, máy bay không có đội thử trên không và chủ yếu được sử dụng trong vai trò tấn công mặt đất. Những báo cáo chi tiết chỉ ra rằng ít nhất 6 chiếc đã bị bắn hạ bởi lực lượng AA tại CroatiaBosnia[48] và 24 chiếc khác bị phá hủy bởi NATO,[49] hầu hết khi đang ở trên mặt đất. Năm 1993, Croatia đã mua khoảng 40 chiếc MiG-21 vi phạm lệnh cấm vận vũ khí, nhưng chỉ có 25 chiếc hoạt động trong các đơn vị, trong khi những chiếc khác được sử dụng như những phụ tùng thay thế. Croatia sử dụng chúng cùng 4 chiếc đào ngũ từ JNA[49] chủ yếu trong các nhiệm vụ tấn công mặt đất và không một ai biết rằng đã có những trận không chiến diễn ra giữa những chiếc MiG của Croatia và Serbia.

Châu Phi

MiG-21 Cuba.

Trong thời gian Chiến tranh Lạnh, những chiếc MiG-21 của Liên Xô được cung cấp tới nhiều quốc gia tại hạ Sahara. Đáng kể nhất là MiG-21 sử dụng trong các cuộc chiến tại Nội chiến Angola, trong tay của Lực lượng Phòng không Không quân Nhân dân Angola. Những phi công của Không quân Cuba đã lái những chiếc MiG-21 tại Angola trong chiến tranh. Cả những chiếc MiG-21 Angola và Cuba thường chạm trán với những chiếc Mirage của Không quân Nam Phi. Năm 2006, ít nhất 2 chiếc MiG-21 đã được sử dụng để nem bom căn cứ không quân của Somalia trong cuộc xâm lấn của Ethiopia vào Somalia.

Romania

Bắt đầu vào năm 1993, Nga không chào hàng những phụ tùng thay thế cho MiG-23MiG-29 của Không quân Romania. Ban đầu, đầy là một bối cảnh cho việc hiện đại những chiếc MiG-21 của Romania với hệ thống của Elbit, và bởi vì thật dễ dàng hơn cho Romania khi tự mình bảo dưỡng những máy bay tiêm kích phản lực này. 110 chiếc MiG-21 đã được hiện đại hóa dưới tên gọi Lancer. Ngày nay, chỉ có 48 chiếc Lancer còn hoạt động trong không quân Romania. Nó có thể sử dụng cả vũ khí của phương Tây và Nga như tên lửa R-60M, R-73, Magic 2, hay Python III. Chúng sẽ bị thay thế vào năm 2012 khi những máy bay chiến đấu mới được mua như Eurofighter Typhoon hay Gripen.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mikoyan-Gurevich MiG-21 http://www.airforce-technology.com/projects/mig21/ http://www.avijacijabezgranica.com http://www.avijacijabezgranica.com/ http://www.bdmilitary.com/forum/index.php?showtopi... http://bharat-rakshak.com/IAF/History/1971War/Soni... http://www.defense-update.com/news/lancer.htm http://theaviationist.com/2014/05/02/cope-india-20... http://www.warbirdalley.com/mig21.htm http://www.worldairforces.com/ http://www.worldairforces.com/Countries/countriesi...